
“Sự gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly.” (Mt. 19:6). “Hôn phối đã được thành nhận và hoàn hợp (“ratum et consummatum” hay “ratified and consummated”) không thể bị tháo gỡ bởi một quyền bính nhân loại hay một nguyên do nào, ngoài sự chết.” (Giáo Luật, điều 1141)..
Tuy nhiên, có những trường hợp mà phép hôn phối, tự bản tính, đã không hữu hiệu vì lý do này hay lý do khác. Ở những trường hợp đó, giáo hội đã cho phép các tín hữu được quyền thỉnh nguyện tòa án hôn phối (Tribunal) của giáo phận, tái xét trường hợp hôn nhân của mình. Sau một thời gian, trung bình khoảng18 tháng, nhanh hay chậm còn tùy ở mỗi giáo phận, điều tra và thẩm định các dữ kiện qua “canonnical jurisprudence” (việc hiểu và áp dụng giáo luật), tòa án hôn phối có thể tuyên bố là phép hôn phối đó đã vô hiệu (invalid) ngay từ bản tính. Do đó, người tín hữu sẽ được nhận bí tích hôn phối với người khác cách hoàn hảo hơn, có khi được gọi nôm na là “tái hôn.”
Mục đích của bài này là trình bày những lý do được giáo hội kể là chính đáng để giải quyết các trường hợp hôn phối, đồng thời giúp người tín hữu giáo dân nhìn thấy quyền lợi của mình và những cơ hội có thể được tòa án hôn phối tuyên xử rằng phép hôn phối đã lãnh nhận là vô hiệu tự bản tính.
Tuy nhiên, có những trường hợp mà phép hôn phối, tự bản tính, đã không hữu hiệu vì lý do này hay lý do khác. Ở những trường hợp đó, giáo hội đã cho phép các tín hữu được quyền thỉnh nguyện tòa án hôn phối (Tribunal) của giáo phận, tái xét trường hợp hôn nhân của mình. Sau một thời gian, trung bình khoảng18 tháng, nhanh hay chậm còn tùy ở mỗi giáo phận, điều tra và thẩm định các dữ kiện qua “canonnical jurisprudence” (việc hiểu và áp dụng giáo luật), tòa án hôn phối có thể tuyên bố là phép hôn phối đó đã vô hiệu (invalid) ngay từ bản tính. Do đó, người tín hữu sẽ được nhận bí tích hôn phối với người khác cách hoàn hảo hơn, có khi được gọi nôm na là “tái hôn.”
Mục đích của bài này là trình bày những lý do được giáo hội kể là chính đáng để giải quyết các trường hợp hôn phối, đồng thời giúp người tín hữu giáo dân nhìn thấy quyền lợi của mình và những cơ hội có thể được tòa án hôn phối tuyên xử rằng phép hôn phối đã lãnh nhận là vô hiệu tự bản tính.
....
Qua nhiều tài liệu và từ chính giáo luật người ta có thể ghi nhận những lý do chính để tòa án hôn phối thẩm định các trường hợp :
Thứ nhất là lý do bất lực , về cả phía nam lẫn nữ . Thứ hai, hoàn toàn giả vờ . Thứ ba, nhất định không muốn có con. Thứ tư, loại bỏ tính cách vĩnh viễn của hôn nhân . Thứ năm, bất trung . Thứ sáu, áp lực và sợ hãi . Thứ bảy, mắc các bệnh tâm thần , phản xã hội tính , đồng tính luyến ái , bệnh hoa liễu, hay có cảm giác bất thường , bệnh nghiện rượu v.v.. Sau này, một số lý do nữa đã được ghi thêm như bệnh động kinh , sự thiếu trưởng thành , thần kinh bị qúa giao động , và có những điều làm cho hôn phối bất thành từ phía nạn nhân.
****
Những điều trên có nghĩa là để hội đủ điều kiện để kết hôn theo truyền thống Công Giáo (bí tích hôn phối), thì phải là hai người cùng đạo thật sự thương yêu nhau với sự tự do hoàn toàn từ tinh thần cho đến các mối quan hệ dân sự ngoài đời. Độ tuổi kết hôn thì tuân theo giáo luật và pháp luật sở tại. Đã 'tốt nghiệp' và có 'bằng'' từ các lớp giáo lý hôn nhân. Đặc biệt là không có những ngăn trở như nêu trên. Cuối cùng là phải kết hôn theo nghi thức Công Giáo.
Cặp hôn phối phải liên kết suốt đời nếu đã hội đủ các điều kiện trên. Trong đời sống hôn phối cũng có những cản trở từ giáo luật về việc ngừa thai ( đặt vòng,bao cao su, triệt sản...). Vấn đề phá thai là một trọng tội, nên bị luật ngăn cấm triệt để. Kẻ phá thai mà đã thành sự thì lập tức bị vạ tuyệt thông.
****
....
Xem thêm :
(*) Tựa bài tạm đặt sau khi tổng hợp tư liệu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét